Một số vấn đề về chính tả Chính tả tiếng Việt

Vấn đề phương ngữ Bắc Trung Nam

Chữ Quốc ngữ là một chữ viết ghi âm, chuẩn hóa chính tả dựa trên chuẩn phát âm, quyết định nền tảng của chính tả tiếng Việt.[97] Về chuẩn phát âm của tiếng Việt, có một số vấn đề. Trên thực tế, chữ viết được coi trọng hơn phát âmViệt Nam: trong trường hợp phát âm tiếng Việt có khác nhau giữa các phương ngữ thì cách phát âm chuẩn được xem là cách phát âm có sự phân biệt được phản ánh trên chữ viết. Ví dụ, chữ viết có phân biệt dấu hỏi – dấu ngã, phát âm của phương ngữ miền Bắc, phân biệt hỏi – ngã là chuẩn chính tả; chữ viết có phân biệt s – x, phát âm của phương ngữ miền Nam, phân biệt s – x là chuẩn chính tả.

Vị trí địa lý tạo nên sự khác trong phương ngữ Việt Nam. Phương ngữ miền Bắc và phương ngữ miền Nam khác nhau ở phần phát âm, đọc trái ngữ âm của nhiều từ. Trong khi phương ngữ miền Trung (chủ yếu ở sáu tỉnh Bắc Trung Bộ) có đặc điểm là tạo ra nhiều từ địa phương. Ví dụ như cụm các từ địa phương miền Trung: mô (nghĩa là đi đâu trong đi mô), tê (nghĩa là bên kia trong bên tê), răng (nghĩa là không sao đâu trong không răng mô), rứa (nghĩa là thế đó trong rứa tê).[98] Vấn đề phương ngữ đã và đang được phân tích và sắp xếp, tạo phương án chuẩn hóa thích hợp, đưa đặc điểm phương ngữ vùng miền trở thành yếu tố ý nghĩa trong văn hóa Việt Nam.[99]

Vấn đề cách viết

Vấn đề mâu thuẫn giữa phát âm của một phương ngữ với chữ viết: chữ viết có phân biệt, nhưng phát âm không phân biệt, tạo ra hiện tượng đồng âm trong phương ngữ. Những hiện tượng đồng âm phương ngữ khiến xuất hiện nhiều vấn đề chính tả, ví dụ như vấn đề phân biệt dấu thanh hỏi – ngã miền Nam, phân biệt ch – tr miền Bắc. Xét tổng thể cả nước, có hai trường hợp vấn đề chính tả do mâu thuẫn giữa phát âm mọi phương ngữ với chữ viết, gồm:

Nhóm d và gi: tiếng Việt không phát âm phân biệt d và gi, nhưng có sự phân biệt trong chính tả. Ví dụ: từ dành và giành có phát âm như nhau, nhưng phân biệt về ý nghĩa trong từ vựng phần chính tả. Dành trong cụm như dành cho, dành dành, dành dụm, dành tiền, dành riêng[100]; giành trong cụm giành lấy, giành nhau, quyết giành, đấu tranh giành độc lập.[101]

Nhóm y và i: chữ Quốc ngữ sử dụng y để viết bán nguyên âm i trong ay, áy; viết nguyên âm i khi đứng một mình trong y, ỷ, ý; viết nguyên âm i trong uy, tổ hợp với ê viết nguyên âm đôi iê (trong yêm, yên, yết, yêu, uyên, uyết, uyên, vân vân).[102] Cách sử dụng y và i chưa được nhất quán, ví dụ: y trong mỹ lệ, nước Mỹ nhưng lại không viết mỵ dân mà là mị dân, các từ đều mang yếu tố Hán Việt. Cả hai lối viết hiện đang tồn tại, có các đề nghị trái chiều bao gồm việc thống nhất sử dụng i, tức khôi phục lại lối viết cũ và giữ nguyên phân định rõ hai âm.[103]

Ngôn ngữ học
Ngôn ngữ học lý thuyết
Ngữ âm học
Âm vị học
Hình thái học
Cú pháp
Chính tả
Ngữ nghĩa học
Ngữ nghĩa học từ vựng
Ngữ nghĩa học cấu trúc
Ngữ nghĩa học nguyên mẫu
Tu từ học
Ngữ pháp quy định
Ngữ dụng học
Ngôn ngữ học ứng dụng
Ngôn ngữ học tâm lý
Ngôn ngữ học xã hội
Ngôn ngữ học phái sinh
Ngôn ngữ học nhận thức
Ngôn ngữ học máy tính
Ngôn ngữ học mô tả
Ngôn ngữ học lịch sử
Từ nguyên học
Danh sách các nhà ngôn ngữ học
Thuật ngữ ngôn ngữ học
Thuật ngữ ngữ âm học
Sửa bảng này

Vấn đề về yếu tố Hán Việt: yếu tố Hán Việt được sử dụng rộng rãi để cấu tạo đại bộ phận từ ghép, một phần hệ thống yếu tố được gọi là âm tiết – yếu tố cấu tạo từ Hán Việt có vấn đề về chính tả. Đối với chính tả yếu tố Hán Việt, hiện đang có quy tắc nhất định, ví dụ: với phương ngữ miền Bắc, vấn đề về d-/gi-/r-, trong đó r không có yếu tố Hán Việt; vần d Hán Việt đều chỉ viết không dấu, dấu ngã hoặc dấu nặng (ngoại trừ từ dần), khác với vần gi Hán Việt đều chỉ viết không dấu, dấu hỏi, dấu sắc.[102]

Đặt vị dấu thanh

Vấn đề về vị trí dấu thanh: trong phần lớn các trường hợp, chuẩn vị trí dấu thanh, quy tắc đặt dấu thanh trong chữ Quốc ngữ được xác định, tuy nhiên thiếu nhất trí trong một số nhóm từ vựng. Các tổ hợp oa, oe, uy và (q)ua, (q)ue, (q)uy, có các thể thức trình bày khác nhau, nhóm dấu thanh ở con chữ giữa: họa, hòe, hủy, qủa, qủe, qúy; với nhóm dấu thanh ở con chữ cuối: hoạ, hoè, huỷ, quả, quẻ, quý; phổ biến được sử dụng trong các văn bản là họa, hòe, hủy, quả, quẻ, quý đã trộn lẫn cả hai nhóm. Trong tiếng Việt, các con chữ o, u dùng để chỉ nguyên âm o, u và bán nguyên âm – bán phụ âm w tại một số trường hợp. Có nghĩa rằng các tổ hợp phía trên thực ra là wa, we, wi và (k)wa, (k)we, (k)wi; w (viết bằng o, u) trong âm tiết này không thuộc thành phần nguyên âm, nguyên âm ở đây là a, e, i (viết bằng y).[104] Đặt vị dấu thanh hiện chưa quyết định chuẩn hóa, trong giai đoạn phân tích quan điểm cũ và mới, chủ yếu ở phần dấu thanh của nguyên âm, bán nguyên âm tròn môi o và u.[105]

Vấn đề sử dụng linh hoạt

Chính tả tiếng Việt được sử dụng linh hoạt theo nhiều hình thức trong đời sống thường ngày, một bộ phận lớn chữ viết khác với chuẩn chính tả thường xuyên trong hội thoại mạng xã hội như Facebook, Youtube.[106] Cách viết này gồm cả cố tình và vô tình, thường ở thanh thiếu niên.[107] Ví dụ như: dùng no nắng, đúng là lo lắng, hok dỡn, đúng là không giỡn hoặc không đùa.[108] Vấn đề này không vi phạm nguyên tắc, vì chuẩn chính tả chỉ bắt buộc trong các văn bản, chữ viết thuộc nội dung chính thức như khoa học, giáo dục, hoạt động xã hội, báo chí; phong cách chữ viết được sử dụng tự do trong đời sống hàng ngày hoặc vấn đề đặc biệt. Tuy nhiên, việc sử dụng sai gây ảnh hưởng tới chuẩn chính tả, gồm: gây hiểu sai chính tả; mở rộng các vấn đề tranh cãi về chính tả. Bên cạnh đó, chính tả còn được sử dụng sai trong, thiếu thống nhất trên các phương tiện thông tin truyền thông, trong các bài văn của học sinh, sinh viên, ví dụ như:[109] từ sai là sát nhập được sử dụng nhiều, từ đúng là sáp nhập,[110] viết hoặc đọc sai là sáng lạng, thực tế phải viết đúng là xán lạn[111]; gây ảnh hưởng sự trong sáng của tiếng Việt, ảnh hưởng đến bản sắc văn hóa.[112] Các vấn đề này đều đang được đánh giá, nghiên cứu phương án giải quyết.

Viết hoa

Đối với viết hoa, viết hoa trong chính tả phổ thông được chuẩn hóa và tuân thủ đồng bộ, ít xảy ra lỗi, vấn đề nằm ở các cụm từ đặc biệt, chủ yếu thuộc chính tả văn bản quy phạm pháp luật. Bởi vì chưa chuẩn hóa, quy định về viết hoa các cụm từ có thay đổi theo các dịp, được theo dõi và tuân thủ. Ví dụ: đối với tên tổ chức, cơ quan, theo Quy định 240 năm 1984 thì chỉ viết hoa chữ cái đầu của âm tiết đầu trong tổ hợp từ dùng làm tên, như Đảng cộng sản Việt Nam, Trường đại học bách khoa Hà Nội; đến năm 2011, theo Thông tư 01 của Bộ Nội vụ, đã chuyển thành viết hoa thêm chữ cái ý nghĩa, như Đảng Cộng sản Việt Nam, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, có hiệu lực thời điểm hiện tại.[113] Bên cạnh đó, trong lĩnh vực báo chí, có nhiều cách viết khác nhau lẫn không tuân thủ chính tả văn bản.[114]

Vấn đề về viết hoa từ ngữ thuộc lịch sử: các từ ngữ đặc biệt trong lịch sử chưa được chuẩn hóa chính tả, có nhiều cách viết khác nhau trong các văn bản và bài viết hiện tại. Ví dụ: từ ngữ tước vị thời phong kiến như Vương, Công, Hầu có nhiều bài viết khác nhau về việc viết hoa hay viết thường từ nguyên Hán Việt này. Các từ này, mang ý nghĩa là từ ngữ đặc biệt, được tạo ra để thể hiện nội dung đặc trưng, cụ thể là các tước vị quý tộc, hoàng gia. Với các khung hình chung như hệ quy định về chính tả văn bản – viết hoa từ đặc biệt của tên hiệu quá khứ, chức vụ hiện đại; hệ các từ tương tự như viết hoa Đế – một từ đồng nhóm cùng Vương trong cụm Giản Định Đế, Hán Vũ Đế; hệ thông dụng tiếng Anh, viết hoa tước vị khi đi kèm tổ chức, cá nhân như Công tước xứ Edinburgh (Duke of Edinburgh, luôn viết hoa từ Duke – tước Công khi đi cùng nhân vật, địa danh, tổ chức);[Ghi chú 31] khiến cho quy tắc đúng là viết hoa từ Vương, Công, Hầu và các từ thuộc hệ tước hiệu, chức vụ này khi đi cùng tên người, tên vị trí, tên chức vụ, như Tây Sở Bá Vương, Hưng Đạo Vương hay Hoàng đế Nhà Đường[Ghi chú 32].

Cải tiến cách viết

Thời hiện đại, có những nghiên cứu về tiếng Việt, bao gồm vấn đề về chính tả, đặc biệt là Đề xuất Cải tiến chữ quốc ngữ, nghiên cứu cá nhân của nhà ngôn ngữ Bùi Hiền, được đề xuất từ năm 1995.[115] Theo đề xuất thì mục đích của cải tiến là: thống nhất và đơn giản hoá một phần về mặt chữ viết cho các văn bản; giúp người nước ngoài, người dân tộc thiểu số dễ tiếp cận với chữ viết tiếng Việt hơn.[116] Cuối năm 2017, sau một cuộc hội thảo về ngôn ngữ, đề xuất của ông được đưa ra truyền thông và tạo nên đánh giá, tranh luận và phản biện sôi nổi về nghiên cứu cải cách của ông;[117] vấn đề này cũng được đưa lên chương trình Táo quân 2018, phổ biến toàn quốc.[118]

Nghiên cứu này tập trung vào cải tiến cách viết tiếng Việt, thay đổi chữ viết, giảm ký tự bảng chữ cái từ 38 xuống 31. Ví dụ phương án cải tiến như:[116]

LUẬT GIÁO DỤC

Điều 7. Ngôn ngữ dùng trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác; dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số; dạy ngoại ngữ.

1. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Căn cứ vào mục tiêu giáo dục và yêu cầu cụ thể về nội dung giáo dục, Thủ tướng chính phủ quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác.

2. Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, giúp cho học sinh người dân tộc thiểu số dễ dàng tiếp thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số được thực hiện theo quy định của Chính phủ.

Cách viết theo phương án:[119]

LUẬT ZÁO ZỤK

Diều 7. Qôn qữ zùq coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák; zạy và họk tiếq nói, cữ viết kủa zân tộk wiểu số; zạy qoại qữ.

1.Tiếq Việt là qôn qữ cín’ wứk zùq coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák. Kăn kứ vào mụk tiêu záo zụk và yêu kầu kụ wể về nội zuq záo zụk, Wủ tướq cín’ fủ kuy dịn’ việk zạy và họk bằq tiếq nướk qoài coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák.

2. N’à nướk tạo diều kiện dể qười zân tộk wiểu số dượk họk tiếq nói, cữ viết kủa zân tộk mìn’ n’ằm zữ zìn và fát huy bản sắk văn hoá zân tộk, zúp co họk sin’ qười zân tộk wiểu số zễ zàq tiếp wu kiến wứk xi họk tập coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák. Việk zạy và họk tiếq nói, cữ viết kủa zân tộk wiểu số dượk wựk hiện weo kuy dịn’ kủa Cín’ fủ.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chính tả tiếng Việt http://www.britannica.com/EBchecked/topic/628547 http://hobieuchanh.com/pages/baiviet/DungVu/Dautie... http://vietlex.com/ngon-ngu-hoc/155-VAN_DE_CHUAN_C... http://www.vietlex.com/ngon-ngu-hoc/53-Dac_diem_cu... http://ttntt.free.fr/archive/Roland4.html http://cungdiendanduong.net/c43/t43-221/to-hich-cu... http://www.tranthutrang.net/writings/blog/2009/12/... http://www.han-nom.org/VanBanHanNom/kieu.pdf http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinh... http://nhipsonghanoi.hanoimoi.com.vn/tin-tuc/nguoi...